Bản Văn Quan Hoàng Mười – Tổng Hợp Các Bản Hát Văn Hay Nhất

Bản văn Ông Hoàng Mười dưới đây thường được các cung văn hát khi hầu giá Ông Mười. Với đầy đủ các làn điệu cải lương, lý, hò… hay và dễ hát nhất.

Đang xem: Bản văn quan hoàng mười

*

Thần tích về Ông Hoàng Mười

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời.

Ông Hoàng Mười là tướng quân Lê Khôi

Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân.

Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Đức Hoàng Mười là tướng Nguyễn Xí

Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà).

Xem thêm: Khi Con Trai Cung Bạch Dương Thích Bạn Đơn Giản Dễ Nhận Ra Nhất

Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.

Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời.

Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Xem thêm: Cách Bỏ Chặn Trên Mess Enger Khi Đã Xóa Cuộc Trò Chuyện Trên Iphone, Android

Bản văn Ông Hoàng Mười hay được hát hầu nhất

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,Nghệ An có đức thánh minh ra đời.Gươm thiêng chống chỉ đất trờiĐánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.Thanh xuân một đấng anh hùng.Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.Hai vai nặng gánh cương thường,Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu,Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi.Khi Bích động lúc Bồng lai,Non nhân, nước trí mọi nơi ra vàoCỏ hoa hớn hở đón chào.Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai.Trời Nam có đức Hoàng Mười,Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai.Nền chí dũng, bậc thiên tài,Văn thao – Võ lược tư Trời thông minh.Tiêu dao di dưỡng tang tình.Thơ Tiên một túi – Phật Kinh trăm tờ.Khi Phong nguyệt, lúc bi từ.Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong.Khi Thiếu lĩnh, lúc non Bồng,Cành cây mắc võng, lòng sông ngự thuyền.Người Thành thị, khách Lâm tuyền,Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang.Phong quang đẹp ý Đức Hoàng.Khác nào Thu cúc – Xuân lan tới tuần.Xiết bao bể ái, nguồn ân.Ban Tài, tiếp Lộc, thi nhân, thi từ.Cát đằng thuận gió xuân đưaXui lòng quân tử đề thơ hảo cầuNăm ba Tiên nữ theo hầu,Trăm hoa cài tóc, nhiễu Tàu vắt vai.Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi,Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng longTrần duyên chưa trút được lòng,Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên.Nghe thường hội nghị quần Tiên,Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng.Vân tiên mượn cánh chim hồng,Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng ?Cầu Ô đem bắc sông Ngân,Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màngBóng trăng soi tỏ canh trường.Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người.Thủy tiên dìu dặt đón mời,Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng.Vượt bể đào tới ngàn xanh.Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non.Trúc xinh cô Quế cũng giòn.Phù dung yểu điệu – Mẫu đơn não nùng.Ngày ngày lên núi ngóng trông.Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng.Nhớ xưa hẹn ngọc, thề vàng.Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơiLên núi rồi lại xuống đồi,Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ.Vào rừng hái lá đề thơ,Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người.Cõi Trần mở tiệc mừng vui.Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh.Rượu đào kính chúc Thánh minh.Phong hoa, tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương.Ngẫm câu Thế sự vô thườngTấc son mượn nước cành dương tưới nhuầnVắng người vắng cả mùa Xuân.Nhớ người vì Nước, vì Dân, vì Đời.Thế gian nhớ miệng Hoàng cườiNhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban.Khi phố Cát, lúc đồi Ngang,Nón kinh vó ngựa, dăm ngàn tiêu dao.Đường đường cung kiếm anh hào,Túi thơ, bầu rượu sớm chiều sênh sang.Hèo hoa chảy hội Tiên hươngChấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây.Khi nương gió, lúc cưỡi mây.Khi rung khánh ngọc, khi lay chuông vàng.Hoàng về gối xếp ai mang,Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông.Lệnh truyền cô Quế, cô Hồng,Hèo hoa, gối xếp, đèn lồng tay mang.Cô Lan, cô Huệ xếp hàng,Gióng yên, dắt ngựa lên đàng vân du.Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa,Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An

Điệu phú chuốc rượu Ông Mười :

Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cấtĐợi xuân về hội nghị quần tiênRượu nồng tiên nữ dâng lênTuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơiHoàng cúc bôi trung đường tiên tửuHằng Nga thiên thượng tuyết thu baTay tiên chuốc chén hoàng hoaNhị tuần dâng tiến mới đà thiết thiSao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏGớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tìnhTay tiên chuốc chén rượu quỳnhTam tuần hiến,hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy…

Các đoạn thơ ca ngợi Quan Hoàng Thập :

Bởi tiền thế tu nhân tích đứcKhiến xui lên gặp bạn tiên cungNợ trần hoàn vương vấn chưa xongGiục lòng khách mơ mòng tưởng nhớNay đến lúc Hoàng về người ởThôi thôi đành vĩnh cách trường lyNghĩa trăm năm còn bức ca thiDâng hoàng tử làm khi tiễn biệtMột lối lên tiên nhẹ gót trầnMây trời cỏ đất hội long vânBa sinh gặp gỡ say vì cảnhMột phút mơ màng vạn cảnh xuânVăng vẳng bên tai cung đàn nguyệtVang vang trong động thú chào xuânChẳng hay cảnh ấy về đâu táMong tới nguyên đào vẫn chủ nhânHoa đào rơi rắc lối thiên thaiSuối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùiNửa năm tiên cảnh bước trần aiƯớc cũ duyên xưa có thế thôiĐá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôiCánh hạc bay cao vút tận trờiNgõ hạnh vườn đào xa cách mãiNgàn năm thơ thẩn bóng trăng soiYên hà lối trước lại lần sauNước biếc non xanh thắm một màuĐàn hát hôm nay êm dìu dịuHạt mây này nọ sạch lầu lầuCây xưa lối cũ say vì cảnhGió mới xuân về chẳng khác xưaNhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đóHỏi người năm cũ bây giờ đâu

Làn điệu Hò Nghệ An :

Đất lề quê thói Nghệ AnMiếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng MườiTrông hoa lại nhớ đến NgườiĐông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ AnĐất Nghệ An có anh hùng hào kiệtTiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưaVung gươm lên ngựa đề cờRa tay gìn giữ cõi bờ Việt NamChí anh hùng ra tay giữ nướcĐi tới đâu giặc phải tan ngayViệt Nam ghi nhớ sử nàyCung cao điện ngọc đêm ngày khói nhangKhi hội nghị luận bàn việc nướcHoàng mang tài thao lược hiến dângLĩnh sắc rồng khiển tướng điều quânGươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông phaĐò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ,Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân LâuNon xanh nước biếc một màuMột con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ AnCũng có phen lên ngàn xuống bểTrở ra về phủ tía lầu sonCũng có phen ngắm ánh trăng trònKhi xem huê nở khi chờ trăng lênĐường về xứ Nghệ nghĩa tình,Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời,Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi,Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhangNước sông Lam răng trong răng đụcGạo chợ Chùa vừa trắng vừa trongGhế ông tình mặn nghĩa nồngĐiều lành điều dữ sá cùng trần gianMuối ba năm muối kia còn mặnGừng chín tháng gừng hãy còn cayGhế ông đây tình nặng nghĩa dàyXa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồngThuyền rồng còn đợi bến sôngChở các thanh đồng đi hội trong Nghệ AnCho dù cách trở sông LamCó cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờDòng sông Lam bên lở bên bồiDấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhangĐất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủĐền Mẫu Phủ Giày còn lồng lộng chữ công danhÔng Mười trấn thủ trong thànhMười ba năm lẻ còn nức danh tướng tàiThành Huế ơi sông Hương răng núi NgựCầu Tràng Tiền,Bến Thủy đẹp long lanhNăm cửa ô về tới đô thànhNam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng MườiĐường vô xứ Nghệ loanh quanhNơi Ông Mười ngự như tranh họa đồAi vô xứ Nghệ thời vôQua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng MườiNgắm xem phong cảnh đất trờiNghệ An mến khách mến người trọng ânCỏ cây chưa trút bụi trầnĐường về chẳng biết rằng gần hay xaXinh thay hỡi thú yên hàĐào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhânĐường xa muôn dặm cũng gầnGiáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồngChim khôn đã phải cẩm lồngCau non, thuốc lá chiều lòng (Hoàng) ăn chơiVân du góc bể chân trờiKhông đâu lịch sự bằng nơi đền nàyBao giờ Hồng Lĩnh hết câySông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tàiĐộ cho đắc lộc tài saiThọ khang phú quý trong ngoài hanh thôngBốn mùa xuân hạ thu đôngThu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tàiAi mà ăn nói đơn saiDù cho của cải cũng để ngoài bể đôngThương ai chấp lính nhận đồngTu nhân tích đức lên công vẹn thànhAi ơi nên ở cho lànhKiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sauNào trời có phụ ai đâuSở nguyện như ý sở cầu tòng tâmAi mà tích đức tu nhânĐắp bồi cội phúc thêm phần đề đaTrăng bao nhiêu tuổi trăng giàGhế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nàoTrên trời vằng vặc ngôi saoTrời nam chói lọi anh hào cổ xưaThương người dầu dãi nắng mưaThương người đi sớm về trưa nặng lòngChứng tâm chứng lộc cho đồngCho cầu nên ước được gia trung thuận hoàCác cô quạt nước pha tràQuần tiên múa hát xướng ca hoạ vầnCô dâng lên chiếc quạt trầmNghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thaiĐầu lược giắt,chân giậm văn hàiCô cả dâng điếu ngự,cô nàng hai theo hầuCô ba gối xếp theo sauĐất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơiCô năm dâng giá gương soiCòn cô nàng sáu rượu mời dâng ôngCô bảy dâng đoá huê hồngCòn cô nàng tám kiệu rồng rước(ông Mười) lênCô Chín múa lượn xênh tiềnThướt tha yểu điệu khách tiên mơ màngCô Mười thỏ thẻ oanh vàngTiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nângCô mười một thơ hoạ đôi vầnDâng ông quý vật kì tân đủ mùiCô mười hai sắc nước hương trờiMười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh

Làn điệu Lý xứ Nghệ bản văn Quan Hoàng Mười :

thuyền ai thả lưới buông câukhoan hỡi dô khoan thuyền quan hoàng thậpdập dìu trên sông sóng nước mênh mônghương ngát bay trong đền lòng hoàng thấy nâng nânguy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nammuôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình anlòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nannắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng contâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời namđộ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam-bên dòng sông lam có đền đức quan hoàng mườiđịa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đờingự đồng chơi hào hoa phong nhãbao người ngóng trông hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm nophúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãicon cúi xin ông mười ông về tiếp lộc để lần sau.​

Điệu cải lương bản văn Ông Hoàng Mười :

Nghệ An, danh nức danh ông Mười,Đai vàng, ngài vận áo vàng anh, về đây giá ngự đồng.Đệ tử cung văn con mang lời ca hiến dâng ông Mười,cầu ông giáng phúc giáng thương độ cho dân chúng.Dân chúng giàu sang bình an, sống yên vui hạnh phúc muôn đời.Trong vùng Khu Tư còn vang tiếng đồn,Cầm quân giết giặc giữ non sông nước Nam thanh bình.Giặc thua hồn tan phách tán, tan nát chịu thua.Ông đi tới đâu chúng dân vui đón mừng ông,Chiến công ông Mười ngàn năm lòng dân ghi nhớ.Chúng con chung lòng xây dựng đất nước đẹp tươi.