Hướng dẫn Soạn Bài 27 sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập hai.
Đang xem: Soạn bài lòng yêu nước
Nội dung bài Soạn bài Lòng yêu nước sgk Ngữ văn 6 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, tự sự, cảm thụ, phân tích, thuyết minh… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 6 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 6.
Soạn bài Lòng yêu nước sgk Ngữ văn 6 tập 2
– I-li-a Ê-ren-bua (1891-1967) là nhà văn ưu tú, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Liên Xô, sinh tại thành phố Ki-ép, trong một gia đình Do Thái, cha là viên chức.
– Ông là một nhà báo lỗi lạc.
– I.Ê-ren-bua đã được nhận: Giải thưởng quốc gia 1942 với tiểu thuyết Pa-ri sụp đổ(1941); Giải thưởng Quốc gia 1948 với tiểu thuyết Bão táp (1946-1947); Giải thưởng Lênin về những cống hiến cho sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc.
Bài Lòng yêu nước được trích từ bài báo Thử lửa của I.Ê-ren-bua viết vào cuối tháng 6 năm 1942. Đây là thời kì khó khăn trong cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược (1941 – 1945).
Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Lòng yêu nước sgk Ngữ văn 6 tập 2. Các bạn cùng tham khảo nhé!
sonlavn.com giới thiệu với các bạn đầy đủ phương pháp, lời hướng dẫn, câu trả lời các câu hỏi có trong phần Đọc – Hiểu văn bản của Bài 27 trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập hai cho các bạn tham khảo. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:
Nêu đại ý của bài văn.
Trả lời:
Đại ý của bài văn: thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả và của người dân Xô- Viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.
Đọc đoạn văn từ đầu đến lòng yêu Tổ quốc và hãy cho biết:
a) Câu mở đầu và câu kết đoạn.
b) Tìm hiểu trình tự lập luận trong đoạn văn.
Trả lời:
a) Câu mở đầu:
Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạch.
Câu kết đoạn:
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
b) Lập luận của đoạn văn rất linh hoạt, sáng tạo, kết hợp giữa diễn dịch và tổng – phân – hợp trong từng đoạn nhỏ.
– Nêu nhận định chung: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất
– Nêu tình huống cụ thể: Chiến tranh đã làm cho những người dân Xô viết nhận ra sâu sắc hơn những vẻ đẹp riêng và hết sức quen thuộc của quê hương mình.
– Kết luận: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm quê hương đã trở thành lòng yêu tổ quốc.
Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình. Đó là những vẻ đẹp nào? Nhận xét vẻ cách chọn lọc và miêu tả những vẻ đẹp đó.
Trả lời:
Nhớ đến quê hương, người dân Xô Viết ở mỗi vùng đều nhớ đến những vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình:
– Người vùng Bắc nhớ: Những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng “gọi đùa người yêu.
– Người xứ U-crai-na nhớ: Bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh …
– Người xứ Gru-di-a nhớ: Khí trời của núi cao, vị mát của nước đóng thành băng, rượu vang cay sẽ rong bọc đựng rượu bằng da dê..
– Người Lê-nin-grát: nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga, nhớ những tượng bằng đồng tạc những con chiến mã …
– Người Mát-xcơ-va nhớ: điện Krem-li, những tháp cổ ngày xưa.
Nhận xét cách chọn lọc, miêu tả những vẻ đẹp đó: tác giả đã chọn lọc những chi tiết giản dị miêu tả cái thần của sự vật và đặc biệt là miêu tả được những nét đặc trưng, thơ mộng nhất của từng nơi.
Bài văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước. Em hãy tìm trong bài câu văn thâu tóm chân lí ấy, ghi lại và học thuộc.
Trả lời:
Câu văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước:
Lòng yêu nước, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Nếu cần nói đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình (hoặc địa phương em đang ở) thì em sẽ nói những gì?
Trả lời:
Nếu nói vẻ đẹp tiêu biểu về quê hương mình thì em sẽ nói:
– Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp: đầm sen, những cánh đồng thơm mát…
– Nổi tiếng với nhiều chùa chiền.
– Mái đình cổ kính, rêu phong
– Nhiều cây cổ thụ trên trăm tuổi…
– Những cánh đồng thẳng cánh cò bay thơm hương lúa ngào ngạt.
– Những con sông mang nặng phù sa bồi đắp cho quê hương.
– Những con đường là quanh co ẩn hiện sau lũy tre làng.
– Màu khói bếp tỏa ra trên mỗi nóc nhà mỗi buổi chiều về.
– Từng đàn trâu thong dong gặm cỏ…
Bài làm:
I-li-a Ê-ren-bua (1891 – 1962)! à nhà văn lớn của Liên Xô, đồng thời là một nhà báo xuất sắc trong đại chiến thế giới lI. Những sáng tác của ông thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Nga. Cuộc đời nhà văn là tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu và lao động không mệt mỏi. Ông đã có nhiều cống hiến lớn lao cho nền văn học Xô viết hiện đại…
Bài văn Lòng yêu nước trích từ bài báo Thủ lửa của I-li-a Ê-ren-bua viết năm 1942, giai đoạn đầu cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống phát xít Đức. Nó được coi là bài ca bất diệt về cội nguồn và sức mạnh lòng yêu nước của nhân dân Nga.
Bài vàn thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả và những người dân Xô-viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Đồng thời bài văn đã nêu lên một chân lí: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Ở đoạn văn này, tác giả giải thích về ngọn nguồn của lòng yêu nước. Nhận định của nhà văn được rút ra từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. Tiếp đó, tác giả nói đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc khiến cho mỗi công dân Xô-viết nhận ra vẻ đẹp hết sức quen thuộc của quê hương mình. Điều này được minh hoạ bằng một loạt hình ảnh đặc sắc thể hiện nét đẹp riêng của mỗi vùng trên đất nước Xô viết. Từ đó dẫn đến nhận định khái quát: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ngọn nguồn của lòng yêu nước đã được chứng minh, mở rộng và nâng cao thành một chân lí ở cuối đoạn văn.
Để nói về vẻ đẹp riêng biệt của từng vùng trên đất nước Xô viết rộng lớn, tác giả đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu cho vẻ đẹp ở nhiều vùng khác nhau. Từ cực Bắc nước Nga đến vùng núi phía Tây Nam thuộc nước Cộng hoà Gru-di-a, những làng quê êm đềm xứ U-crai-na, từ thủ đô Mát-xcơ-va cổ kính đến thành phố Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng,…Mỗi hình ảnh tuy chỉ là gợi tả qua nỗi nhớ nhưng vẫn làm nổi rõ được vẻ đẹp riêng và tất cả đều thấm đượm tình cảm yêu mến, tự hào của mọi người về quê hương mình.
I-li-a Ê-ren-bua đã diễn tả lòng yêu nước là một khái niệm trừu tượng bằng những hình ảnh cụ thể và dễ hiểu: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phô’ nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Có nghĩa là lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những sự vật, khung cảnh gần gũi thân quen quanh ta trong cuộc sống hằng ngày. Tình yêu ấy tạo nên sợi dây vô hình mà bền chắc, ràng buộc con người với làng mạc, quê hương, xử sở.
Khi phải sống xa quê hương, tình yêu ấy càng trỗi dậy mãnh liệt trong lòng mỗi người. Giữa những khoảnh khắc im tiếng súng trong một cuộc chiến đấu gay go, ác liệt, mỗi chiến sĩ Xô-viết đều nhớ tới hình ảnh đẹp đẽ, thanh tú của quê hương mình: Người vùng Bắc nghĩ đến cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miền Xu-cô-nô, thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng” gọi. đùa người yêu.Hay: Người xứ U-crai-na nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh…
Người ở thành Lê-nin-grát… nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga… Người Mát-xcơ-va nhở như thấy lại những phố cũ chạy ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, để rồi đổ ra những đại lộ của thành phố mới. Xa nữa là điện Krem-li, những tháp cổ ngày xưa, dấu hiệu vinh quang của đất nước Nga… Như vậy là trong lòng những người lính của bất kì miền quê nào, dù là miền núi hay đồng bằng, dù nông thôn hay thành thị… đều ẩn chứa những hình ảnh, kỉ niệm sâu sắc về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Nhà văn Ê-ren-bua đưa ra một khái niệm thật giản dị, cụ thể về lòng yêu nước: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Giản dị và dễ hiểu bởi nó là một chân lí, một quy luật, chẳng khác nào dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu gia đình, yêu quê hương mở rộng, nâng cao lên sẽ trở thành lòng yêu nước.
Lòng yêu nước được bắt nguồn từ tình yêu với những vật bình thường, gần gũi, từ lòng yêu gia đình, quê hương. Nhưng lòng yêu nước chỉ có thể bộc lộ đầy đủ sức mạnh lớn lao của nó trong những hoàn cảnh thử thách gay go, mà lúc này là cuộc chiến tranh Vệ quốc ác liệt một mất một còn với quân thù. Chính trong hoàn cảnh ấy, cuộc sống và số phận của mỗi người gắn liền làm một với vận mệnh của Tổ quốc và lòng yêu nước của nhà văn đã được thể hiện với tất cả sức mãnh liệt của nó.
Xem thêm: Giáo Án Công Nghệ 11 Bài 21 : Nguyên Lý Làm Việc Của Động Cơ Đốt Trong
Không thể chấp nhận một lòng yêu nước mơ hồ, chung chung. Lòng yêu nước phải đi đôi với những suy nghĩ, hành động thiết thực và được bộc lộ rõ ràng nhất trong lửa đạn chiến tranh. Trước sự tồn vong của Tổ quốc, mỗi công dân Nga đều hiểu lòng yêu nước của mình lớn đến dường nào. Họ yêu người thân, yêu Tổ quốc, yêu nước Nga, yêu Liên bang Xô-viết. Ai cũng cảm thấy mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa, bởi nước Nga thiêng liêng đã trỏ thành máu thịt, thành linh hồn của mỗi người.
Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống phát xít Đức xâm lược, nhân dân Nga càng yêu đất nước bao nhiêu thì càng căm thù bọn cướp nước bấy nhiêu. Họ đã biến lòng căm thù ấy thành hành động cụ thể. Mỗi làng quê, thành phố của nước Nga là một pháo đài, mỗi người dân Nga là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm.
Lòng yêu nước chân chính là cơ sở để phân biệt rạch ròi sự khác biệt giữa các chiến sĩ Hồng quân – người anh hùng cầm súng bảo vệ Tổ quốc và tên lính Đức – đứa hung phạm, kẻ sát nhân nhà nghề. Lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hồng quân đã khiến cho binh lính Đức khiếp sợ và khâm phục.
Gương hi sinh oanh liệt của năm chiến sĩ hải quân trong trận giao chiến ác liệt bảo vệ Xê-bát-xtô-pôn là bằng chứng hùng hồn cho lòng yêu nước: Họ đã ôm lấy nhau, gùi nhau lời chào vĩnh biệt và quấn lựu đạn vào người, lăn ra cản xe tăng địch. Hơn ai hết, họ là những người tha thiết mến yêu cuộc sống nhưng cũng dám xông vào cái chết, hiến dâng sự sống của cá nhân để gìn giữ sự sống cho đất nước và dân tộc. Họ đã chiến thắng cái chết và trở thành bất tử bởi tinh thần hi sinh cao cả của họ đã thổi một nguồn sống mới vào lòng triệu con người; nó đã mỗ rộng và luyện chắc linh hồn nước Nga; nó sống mãi giữa trận chiến đấu ác liệt nhất trong năm nay; nó còn sống cả sau ngày thắng lợi giữa muôn hoa rực rỡ tung nở trên khắp các đồng quê và trong những giọng hát trong trẻo nhất của một bầy thiếu nữ đồng ca.
Tổ quốc Liên bang Xô viết và nhân dân Nga ngàn đời ghi nhớ công ơn của những người anh hùng cứu nước. Vinh quang bất diệt thuộc về họ.
Lòng yêu nước là một tình cảm vô cùng thiêng liêng – là cội nguồn sức mạnh của mọi suy nghĩ, hành động, sáng tạo ở mỗi con người chân chính. Đoạn văn trên đây của I-li-a Ê-ren-bua không chỉ ngợi ca lòng yêu nước và cổ vũ toàn dân xông lên chiến đấu chống phát xít Đức bảo vệ Tổ quốc, mà còn xứng đáng được coi là bài ca bất hủ về lòng yêu nước của nhân dân Nga nói riêng và của nhân loại nói chung trên trái đất này.
Bài làm:
I-li-a Ê-ren-bua là một nhà văn – nhà báo nổi tiếng của Liên Xô trước đây. Cuộc đời cầm bút của ông đã gắn bó với một giai đoạn thử thách đầy ác liệt và cam go của đất nước Xô Viết: cuộc đụng đầu quyết liệt giữa nhà nước Xô Viết chân chính với bọn phát xít Hít-le trong cuộc chiến tranh vệ quốc vỉ dại (1941- 1945). Lửa thử vàng, chính trong lúc cam go nhất của lịch sử, lòng yêu nước của công dân Xô Viết được thử thách. Là một nhà báo, I-li-a Ê-ren-bua đã ghi lại được những thời khắc lịch sử vô cùng quý báu và thiêng liêng của dân tộc. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã ra đời trong thời kì này mà Thử lửa là một sáng tác đặc sắc.
Thử lửa là một bài báo rất độc đáo. Chính chất văn và chất báo trong con người I-li-a Ê-ren-bua đã kết tinh nên thiên tuỳ bút – chính luận này.
Bài văn Lòng yêu nước (Ngữ văn 6, tập II) là một phần của thiên tuỳ bút chính luận Thử lửa. Chỉ mấy chục dòng nhưng bài văn cũng đủ đem đến cho người đọc những cảm xúc, ấn tượng khó quên. Bài văn đã hội tụ được trong nó chất chính luận sắc sảo với chất trữ tình đằm thắm, vì thế, việc khẳng đinh chân lí. Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yèu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc trở nên có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Bài văn được bố cục thành hai phần với hai ý lớn. Ở phần đầu của bài viết, tác giả đề cập tới ngọn nguồn của lòng yêu nước. Để thể hiện nội dụng này, tác giả sử dụng một trình tự lập luận khá chặt chẽ.
Mở đầu đoạn văn, tác giả nêu lên một nhận định được đúc kết từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất, cụ thể là yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lè mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.
Tiếp đó, tác giả mở rộng chứng minh nhận định, đề cập đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể: Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương.
Cuối cùng, tác giả khái quát thành một chân lí. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn- ga, con sông Vôn- ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yếu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc.
Tuy nhiên, sức thuyết phục của bài văn chủ yếu không phải bằng lí lẽ, mà bằng tình cảm thiết tha, sâu đậm và sự hiểu biết sâu sắc về Tổ quốc Liên bang Xô viết của nhà văn. Chính tình cảm và sự hiểu biết ấy đã khiến tác giả cảm nhận được những “nét thanh tú”, những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo của mỗi miền đất nước.
Ngòi bút của tinh tế I-li-a Ê-ren -ri-bua đưa người đọc đến những vùng miền khác nhau của đất nước Liên Xô rộng lớn, chiêm ngưỡng những vẻ đẹp thiên nhiên, thưởng thức những đặc sản, cảm nhận những tình cảm bình dị, ngọt ngào. Đây miền Bắc của Liên Xô với những cánh rừng bên dòng sông, có những thân cây mọc là là mặt nước, những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng cô nàng gọi đùa người yêu. Đây xứ U-crai-na êm đềm với bóng thuỳ dương tư lự bèn đường, trưa hè vàng ánh.
Đây sứ Gru-di-a với những triền núi cao có khí trời trong lành, những tảng đá sáng rực, dòng suối óng ảnh bạc, có vị mát của nước đóng băng, rượu vang cay, những lời thân ái giản dị Thật thú vị biết bao! Và đây, thành Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng, với những tượng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, lá hoa rực rỡ của công viên mùa hè, những phố phường mà mỗi căn phòng là một trang lịch sử. Và đây nữa thành Mát-Xcơ-va cổ kính với những phố cũ ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, với điện Krem-li, nhừng tháp cổ có ánh sao đỏ.
Ngòi bút miêu tả cùa I-li-a Ê-ren-bua mang đậm sác thái trữ tình, thể hiện tình cảm yêu mến và tự hào sâu sắc của ông về quê hương đất nước của mình.
Có thể nói, chưa bao giờ khái niệm về lòng yêu nước lại được diễn tả chính xác và gợi cảm đến thế.
Ngay chân lí về lòng yêu nước cũng được thể hiện bằng một hình ảnh so sánh rất ấn tượng. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Sau khi nêu ra ngọn nguồn của lòng yêu nước, I-li-a Ê – ren- bua chuyển sang khắng định: Lòng yêu nước chỉ có thể được bộc lộ đầy đủ nhất, cao đẹp nhất khi được thử thách trong lửa đạn chiến tranh: Có thể nào quan niệm được sức mãnh liệt của tình yêu mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử thách. Chính trong cuộc chiến tranh vệ quốc một mất một còn này, mỗi người dân Xô Viết hiểu cuộc sống và số phận của họ và gắn liền với vận mệnh Tổ quốc. Và vì thế, họ sẵn sàng rời xa quê hương tươi đẹp, thơ mộng xiết bao trìu mến để lên đường chiến đấu vì Tổ quốc.
Bài văn kết thúc bằng một câu nói đã trở thành phương châm sống của công dân Xô Viết lúc bấy giờ: Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa.
Phương châm ấy đã trở thành lí tưởng sống của mọi dân tộc.
Bài làm:
Quê tôi là một vùng thôn quê nghèo, đất đai cằn cỗi. Dân làng tôi quanh năm đầu tắt mặt tối mà vẫn nghèo. Đặc biệt cái nóng như rang của gió Lào mùa hạ tưởng như có thể luộc chín người ta. Có lẽ vì thế mà người quê tôi đều tìm cách thoát li khỏi quê đế tìm cuộc sống dễ chịu, an toàn hơn.
Cha tôi không phải thuộc những người ấy, nhưng ông cũng rời xa quê đên ba mươi năm.
Hồi trẻ, ông đi bộ đội. Đơn vị ông đóng quân ở Thái Nguyên. Cha tôi quen một cô cán bộ Hội phụ nữ huyện. Họ thương nhau. Rồi một lễ cưới giản dị được tổ chức.
Khi mẹ tôi đang mang thai tôi thì cha tôi lại lên đường ra mặt trận phía Nam. Mẹ tôi vẫn công tác ở Thái Nguyên. Bà xin cơ quan một mảnh đất và dựng một căn nhà nho nhỏ.
Bằng bẵng suốt 20 năm trời, cha tôi chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Rồi chiến tranh kết thúc, cha tôi trở về.
Cha tôi trở về gặp lại vợ con khi tóc người đã điểm bạc, còn tôi đã là sinh viên của một trường sư phạm. Gặp lại mẹ con tôi, cha tôi mừng lắm. Nhưng không hiểu sao, chỉ được một tháng sau ngày trở về, cha tôi bàn với mẹ tôi chuyển về quê ở Nghệ An. Mẹ tôi không đồng ý. Cha tôi cũng không ép, nhưng ông có vẻ buồn lắm. Ông trở nên ít nói và sông lặng lẽ hơn.
Ba năm sau ngày trở về, vết thương cũ của cha tôi hồi ở chiến trường tái phát. Cha tôi đổ bệnh rồi qua đời. Trước khi giã từ cuộc sống để trở về nơi cát bụi, cha tôi để lại một lời trăng trối tha thiết:
– Khi nào tắm rửa cho cha, con hãy đem hài cốt cha về chôn tại quê nhà. Con hãy hứa với cha đi, có như vậy cha mới yên lòng mà nhắm mắt.
– Con… xin… hứa…! Tôi trả lời trong tiếng nức nở nghẹn ngào.
Trong lúc đau thương tột đĩnh, tôi vẫn nhận thấy ánh mắt cha tôi ánh lên một thứ ánh sáng lạ kì mà tôi chưa từng thấy. Rồi cha tôi trút hơi thở cuối cùng.
Ba năm sau, theo di nguyện của cha, tôi đem hài cốt ông chôn cất tại quê nhà.
Đây là lần đầu tiên tôi về quê mã tại sao cái gì cũng rất thân quen. Từ con đường làng đầy bùn đất, đến những trảng cát ven biển, những rặng phi lao chắn bão, những con sò, con ốc… tất cả những thứ đó dường như tôi đã gặp từ rất lâu rồi. Chị gái họ đưa tôi ra biển tắm. Biển quê hương âu yếm ôm tôi vào lòng, vỗ về tôi…
Có một sợi dây vô hình nào đó gắn bó tôi với làng quê mình mà tôi không nhìn thấy, giờ đây, tôi cảm nhận rất rõ.
Tôi bỗng hiểu vì sao cha tôi muốn về sống những ngày cuối đời ở quê. Vì sao cha tôi muốn tôi đưa hài cốt ông về chôn cất tại quê nhà. Thì ra cái tình quê âm ỉ cháy dai dẳng suốt mấy chục nằm trong lòng người con xa quê. Cái tình quê sâu nặng ấy làm nên tình yêu Tổ quốc để ông có thể dũng cảm từ biệt quê hương, chiến đấu cho Tổ quốc. Và khi đã làm tròn bổn phận công dân, cái tình quê ấm áp ấy lại thôi thúc ông trở về.
Xem thêm: Tên Các Loại Cây Lấy Gỗ Có Giá Trị Kinh Tế Cao Ở Nước Ta, Tên Các Loại Cây Lấy Gỗ
– Cha ơi, cha hây yên lòng nằm nghĩ giữa làng quê mình. Cảm ơn cha đã cho con hiểu thế nào là tình nhà, tình quê, nghĩa nước. Tôi thầm thì khe khẽ.
Bài trước:
Bài tiếp theo:
Trên đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Lòng yêu nước sgk Ngữ văn 6 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!