Soạn bài sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh cực hay hỗ trợ bạn trả lời câu hỏi SGK để soạn bài hơn.
Đang xem: Soạn sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh
Hướng dẫn soạn bài sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh giúp bạn nắm vững kiến thức và trả lời tốt nhất các câu hỏi trong trang 12 đến 15 SGK Ngữ Văn 9 tập 1.
Tìm hiểu việc sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minhSoạn bài sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh phần luyện tập
Văn bản thuyết minh có những tính chất gì? Nó được viết ra nhằm mục đích gì? Cho biết các phương pháp thuyết minh thường dùng.
– Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thường gặp trong mọi lĩnh vực đời sống, có chức năng cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng cách trình bày, giới thiệu, giải thích.
– Các phương pháp thuyết minh thường dùng: phương pháp định nghĩa, phân loại, nêu ví dụ, liệt kê, nêu số liệu, so sánh…
Tham khảo: Soạn bài tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh
Văn bản này thuyết minh đặc điểm của đối tượng nào? Văn bản có cung cấp được tri thức khách quan về đối tượng không? Văn bản đã vận dụng phương pháp thuyết minh nào là chủ yếu? Đồng thời, để cho sinh động, tác giả còn vận dụng biện pháp nghệ thuật nào?.
HẠ LONG – ĐÁ VÀ NƯỚC
Sự kì lạ của Hạ Long là vô tận. Tạo hoá đã biết dùng đúng chất liệu hay nhất cho cuộc sáng tạo của mình: Nước. Chính Nước làm cho Đá sống dậy, làm cho Đá vốn bất động và vô tri bỗng trở nên linh hoạt, có thể động đến vô tận, và có tri giác, có tâm hồn.
Nước tạo nên sự di chuyển. Và di chuyển theo mọi cách. Có thể để mặc cho con thuyền của ta mỏng như lá tre tự nó bập bềnh lên xuống theo con triều ; có thể thả trôi theo chiều gió, theo các dòng chảy quanh co phức tạp giữa các đảo ; cũng có thể thong thả khua khẽ mái chèo mà lướt đi, trượt nhẹ và êm trên sóng ; có thể nhanh tay hơn một chút để tạo một cảm giác xê dịch thanh thoát ; có thể bơi nhanh hơn bằng thuyền buồm, nhanh hơn nữa bằng thuyền máy, cũng như bay trên các ngọn sóng lượn vun vút giữa các đảo trên ca nô cao tốc ; có thể thả sức phóng nhanh hàng giờ, hàng buối, hàng ngày khắp các trận đồ bát quái Đá trộn với Nước này ; mà cũng có thể, như một người bộ hành tuỳ hứng, lúc đi lúc dừng, lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc lùi, thẳng tắp hay quanh co, lao ra những quãng trống hay len lỏi qua các khe hẹp giữa các đảo đá… Và cái thập loại chúng sinh Đá chen chúc khắp vịnh Hạ Long kia, già đi, trẻ lại, trang nghiêm hơn hay bỗng nhiên nhí nhảnh, tinh nghịch hơn, buồn hơn hay vui hơn,… hoá thân không ngừng là tuỳ theo góc độ và tốc độ di chuyển của ta trên mặt nước quanh chúng, hoặc độ xa gần và hướng ta tiến đến chúng hay rời xa chúng; còn tuỳ theo cả hướng ánh sáng rọi vào chúng, hoặc đột nhiên khiến cho mái đầu một nhân vật Đá trẻ trung ta chừng đã quen lắm bỗng bạc xoá lên, và rõ ràng trước mắt ta là một bậc tiên ông không còn có tuổi. Ánh sáng hắt lên từ mặt nước lung linh chảykhiến những con người bằng đá vây quanh ta trên mặt vịnh càng lung linh, xao động, như đang đi lại, đang tụ lại cùng nhau, hay đang toả ra. Hoặc cũng rất có thể, khi đêm đã xuống, dưới ánh sao chi chít trên bầu trời và chi chít xao động dưới cả mặt nước bí ẩn nữa, sẽ có cuộc tụ họp của cái thế giới người bằng đá sống động đó, biết đâu!…
<…> Để rồi, khi chân trời đằng đông vừa ứng tím nhạt, rồi từ từ chuyển sang hồng… thì tất cả bọn người đá ấy lại hối hả trở về vị trí của họ. Mà vẫn còn nóng hổi hơi thở cuộc sống đêm chưa muốn dứt.
Hạ Long vậy đó, cho ta một bài học, sơ đẳng mà cao sâu : Trên thế gian này, chẳng có gì là vô tri cả. Cho đến cả Đá. Ở đây Tạo hoá đã chọn Đá làm một trong hai nguyên liệu chủ yếu và duy nhất của Người để bày nên bản phác thảo của Sự sống. Chính là Người có ý tứ sâu xa đấy: Người chọn lấy cái vẫn được coi là trơ lì, vô trị nhất để thể hiện cái hồn ríu rít của sự sống. Thiên nhiên bao giờ cũng thông minh đến bất ngờ nó tạo nên thế giới bằng những nghịch lí đến lạ lùng…
(Theo Nguyên Ngọc, Hạ Long – Đá và Nước, Ban quản lí vịnh Hạ Long, 2002)
Trả lời
– Đối tượng thuyết minh: Đá và Nước Hạ Long.
– Văn bản đã cung cấp các tri thức khách quan về đối tượng thuyết minh, đó là sự kì lạ vô tận của Đá và Nước Hạ Long.
Xem thêm: Diễn Viên Bảo Thanh – Bảo Thanh (Diễn Viên)
– Phương pháp thuyết minh chủ yếu được sử dụng trong văn bản là phương pháp liệt kê (về số lượng và quy mô để cho thấy sự kì lạ vô tận của Đá và Nước Hạ Long)
– Để tạo sự sinh động cho bài viết, tác giả còn sử dụng phép nhân hóa (về Đá Hạ Long với sự hóa thân không ngừng của đá tùy theo theo góc độ và tốc độ di chuyển của con người trên mặt nước), biện pháp liên tưởng, tưởng tượng (về Nước Hạ Long).
– Tác dụng: Các biện pháp nghệ thuật làm cho văn bản thuyết minh trở nên sinh động, hấp dẫn và làm cho hình ảnh Đá và Nước Hạ Long trở thành thế giới sống động, có hồn.
Phần bài soạn chi tiết giúp các em tham khảo và nắm các ý chính để hoàn thành bài soạn của mình.
Đọc văn bản “Ngọc Hoàng xử tội ruồi xanh” trang 14 SGK Ngữ văn 9 tập 1 và trả lời câu hỏi:
a) Văn bản có tính chất thuyết minh không? Tính chất ấy thể hiện ở những điểm nào? Những phương pháp thuyết minh nào đã được sử dụng?
– Tính chất thuyết minh thể hiện ở các chi tiết sau:
+ “Con là Ruồi xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt lưới. Họ hàng con rất đông, gồm Ruồi trâu, Ruòi vằng, Ruồi giấm…”
+ “Bên ngoài ruồi mang 6 triệu vi khuẩn, trong ruột chứa tới 28 triệu vi khuẩn…”
+ “một đôi ruồi, trong một mùa từ tháng 4 đến tháng 8, nếu đều mẹ tròn con vuông sẽ đẻ ra 19 triệu tỉ con ruồi…”
+ “một mắt nó chứa hàng triệu mắt nhỏ; chân ruồi có thể tiết ra chất dính làm nó đậu được trên mặt kính mà không trượt chân…”
– Phương pháp thuyết minh: Định nghĩa, liệt kê, số liệu, phân loại.
b) Văn bản thuyết minh này có nét gì đặc biệt? Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
– Đây lả một văn bản thuyết minh đặc biệt vì nó được thuyết minh trong vỏ bọc là một câu chuyện, tạo sự hứng thú trong tiếp nhận, giúp việc tiếp thu kiến thức trở nên dễ dàng và đồng thời tạo sự vui vẻ, nhẹ nhàng.
– Tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật: nhân hoá, liên tưởng, tưởng tượng, hư cấu trong văn bản
c) Các biện pháp nghệ thuật ở đây có tác dụng gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh hay không?
Các biện pháp nghệ thuật này có tác dụng gây hứng thú cho bạn đọc nhỏ tuổi, vừa là truyện vui, vừa thêm tri thức.
Đọc đoạn văn sau và nêu nhận xét về biện pháp nghệ thuật được sử dụng để thuyết minh:
Bà tôi thường kể cho tôi nghe rằng chim cú kêu là có ma tới. Tôi hỏi vì sao thì bà giải thích: “Thế cháu không nghe tiếng cú kêu thường vọng từ bãi tha ma đến hay sao?”. Sau này học môn Sinh học tôi mới biết là không phải như vậy. Chim cú là loài chim ăn thịt, thường ăn thịt lũ chuột đồng, kẻ phá hoại mùa màng. Chim cú là giống vật có lợi, là bạn của nhà nông. Sở dĩ chim cú thường lui tới bãi tha ma là vì ở đó có lũ chuột đồng đào hang. Bây giờ mỗi lần nghe tiếng chim cú, tôi chẳng những không sợ mà còn vui vì biết rằng người bạn của nhà nông đang hoạt động.
Đoạn văn nói về tập tính của chim cú dưới dạng một ngộ nhận thời thơ ấu, sau lớn lên đi học mới có dịp nhận thức lại sự nhầm lẫn cũ. Biện pháp nghệ thuật ở đây chính là lấy sự ngộ nhận hồi nhỏ làm đầu mối cho câu chuyện.
• Muốn cho văn bản thuyết minh được sinh động, hấp dẫn, người ta vẫn dụng thêm một số biện pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hoá hoặc các hình thức về, diễn ca,…
• Các biện pháp nghệ thuật cần được sử dụng thích hợp, góp phần làm nổi bật đặc điểm của đối tượng thuyết minh và gây hứng thú cho người đọc.
Xem thêm: Cách Chuyển Đổi Độ F Sang Độ C Của Máy Microlife, Lưu Ý Gì Khi Thực Hiện
Chúc các em soạn bài sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh tốt và đừng quên tham khảo nhiều bài soạn văn 9 khác tại Tuyển Sinh AZ để học tốt hơn môn Ngữ Văn lớp 9.
Mở bài Ai đã đặt tên cho dòng sông hay và ấn tượng nhấtSoạn bài đấu tranh cho một thế giới hòa bình